Cùng một lá số, đến hạn tốt có người tai họa, hạn xấu có người phát tài. Xem tử vi cốt phải thực rõ điều này.

Cách cục thấp nhưng đắc cách ví như cá chép vượt vũ môn hóa rồng, đẹp nhưng ắt phải trải qua gian lao mà thành công.

Bộ sao Tuế Hổ Phù chủ lập trường của con người, mệnh có thường đắc đủ bộ tứ linh để tô vẽ cho người cao quý.

Muốn học tử vi phải bỏ đi các sao thừa để luận đoán chính xác, 12 cung đều là của ta.

An sao bằng tay là phương pháp nhanh nhất để rèn luyện kỹ năng luận giải tử vi.

Nhãn:

Luận về bộ sao Tả Hữu



Tả Phụ và Hữu Bật là hai sao trong lục cát tinh, Tả Phụ thuộc ngũ hành là Dương Thổ, chứa Thủy, và Hữu Bật thuộc ngũ hành Âm Thổ chứa Hỏa. Vì vậy, Tả Phụ hợp với bộ Phủ ( Âm Thổ ) Tướng chủ dùng lời nói " Tả Phủ đồng cư nhất hô bách nặc", tức giỏi việc phủ dụ và có chân tay đắc lực, một lời gọi trăm người hưởng ứng. Phụ Bật là hai sao có cách giáp rất đặc sắc, có trường hợp đẹp hơn trong tam hợp mệnh như việc hai sao Tả Phụ và Hữu Bật giáp đế tinh là Tử Vi với các câu phú. " Phụ Bật giáp Đế phúc lai lâm". "Phụ Bật giáp Đế tối vi kỳ". " Phụ Bật giáp Đế vi thượng phẩm". Cách giáp này đẹp hơn giáp với bộ sao Xương Khúc rất nhiều vì khi giáp Xương Khúc cường cung gặp bộ Không Kiếp không hay, chủ gia đình tổ tiên gia giáo và mình hưởng thụ cái tinh hoa ấy. Tượng là Đế Tinh có văn thần Tả Phụ và võ thần Hữu Bật đứng chầu hai bên, mệnh có Khôi Việt Xương Khúc và ít nhất một trong Tam Hóa, không bị Tuần Triệt đương đầu đều luận đại cát, mệnh vương tử.  Phụ Bật giáp tính chất rất mạnh, chủ được giúp đỡ từ bên ngoài, có hai cách giáp Tả Hữu là hai sao này đồng cung tại Sửu Mùi và mệnh lập tại Sửu Mùi được hai sao này giáp đều luận là cách tốt. Cung mệnh có sao Tả Phụ tọa thường được tiên tổ phù trì. " Tả Phụ trùng lai ư mệnh vị tiên tổ hữu quang". Tả Hữu là hai sao rất cần đóng trong tam hợp mệnh, chủ ra đường gặp nhiều người giúp đỡ, thăng tiến trong sự nghiệp và tiền tài. "Tả Phụ Hữu Bật chung thân phúc hậu". Cuộc đời ít gặp sóng gió dù cho Sát Phá thủ mệnh. Mệnh làm quan đều cần gặp Tả Hữu, mệnh Tử Phủ Vũ Tướng Liêm rất cần thiết. "Đế tinh hữu lực, toàn y phụ tá chi công". Bộ sao Nhật Nguyệt chủ nam nữ, nếu gặp Tả Hữu rất hợp." Nhật Nguyệt Tả Hữu hợp vi giai", gặp thêm Lộc Tồn được cách " Thái Âm Tả Hữu Lộc Tồn phú đồ ông".



Tả Phụ và Hữu Bật có thể Hóa Khoa, Tứ Hóa đa số được hóa từ chính tinh, duy có bộ Tả Hữu Xương Khúc cho thấy tầm quan trọng của 4 sao này. Thêm bộ Khôi Việt an từ Thiên Can của năm sinh, tức là vị trí khắc hóa hữu tình thành Lục Cát Tinh. Xương Khúc có thể Hóa Kỵ nhưng Tả Hữu chỉ Hóa Khoa, tức tính chất cực đoan của Xương Khúc chính là hóa thành trắc trở, nguy hiểm, Tả Hữu không bị biến hóa cực đoan, thuộc tính điều hòa của Hóa Khoa, vậy Hữu Bật gọi là Trung Tinh. Vì vậy, mệnh có Tả Hữu được hưởng lợi ích rất lớn từ cách Tiểu Hạn như năm Nhâm và Mậu. Xương Khúc gặp họa hại nhất là khi hình thành bộ Lưu Kỵ Đà, Song Kỵ,... ở tuổi Tân và Kỷ. Hữu Bật được khởi từ cung Tuất, thuộc mộ khố, tàng Hỏa khí, Hữu Bật đi ngược theo tháng sinh. Tả Phụ khởi từ cung Thìn, thuộc mộ khố, tàng Thủy khí, Tả Phụ đi thuận theo tháng sinh. Tương tự như các sao đôi khác, tính chất của Tả Phụ và Hữu Bật không giống nhau, hai sao Tam Thai và Bát Tọa an từ bộ Tả Hữu tính chất cũng khác nhau. Tả Hữu không nên gặp Không Kiếp, vì đây là hai sao thuộc phò tá tinh, gặp Không Kiếp chuyên tác họa, đi với Sát Phá Tham đắc dụng, mệnh tốt có thể thống lĩnh ba quân, Tả Phụ giỏi văn, Hữu Bật giỏi võ. Tả Hữu tính tình khắc khoan, làm việc có đầu có đuôi, bình tĩnh giải quyết công việc, cũng vì vậy nên dễ được sự cảm thông giúp đỡ của người khác. Tả Phụ Hữu Bật gặp cát tinh thì nhất quyết không phải mệnh yểu, vì đây cũng là cách an nhàn, nghe lời khuyên bảo của cha ông khi tuổi nhỏ.



Tả Hữu rất có ít khuyết điểm vì thuộc tính Thổ, nên các câu phú đa phần không có chỗ hãm, chỉ có nơi miếu là đồng cung tại Sửu Mùi. Tả Hữu rất ít khiếm khuyết vì là phò tá tinh, tuy nhiên bộ sao này gặp Kình Đà không tốt, vì đa phần Kình xung phong nhưng Tả Hữu lại cẩn trọng, Kình chủ cướp cơ hội rất nhanh vì vậy không thích hợp với Tả Hữu. Bộ sao này thích hợp với Lộc Tồn càng tăng thêm tính cẩn trọng. Trong Tử Vi Tinh Quyết có viết "Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội". Mệnh Cơ Lương ở Thìn Tuất gặp bộ Tả Hữu luận là đại cát.

0 nhận xét
Nhãn:

Luận về bộ sao Khôi Việt




Thiên Khôi và Thiên Việt là bộ sao trong lục cát tinh, có khả năng hóa cát cho các vị trí hãm của chính tinh, chủ học vấn uyên bác, ở cung mệnh và trong tam hợp thường là những người quan trọng trong xã hội, bộ sao Khôi Việt có tác dụng tăng sự tốt đẹp của cát tinh, cũng có tác dụng chiết giảm nguy hại của tứ sát. Thiên Khôi chủ trên bộ phận cơ thể là đầu, tọa mệnh thì thường là con trưởng, nếu không cũng đoạt trưởng. Thiên Việt chủ thứ, bộ phận trên cơ thể là vai, tọa mệnh thì thường là con thứ. Cung mệnh có Thiên Khôi được Thiên Việt xung chiếu hoặc tam hợp và ngược lại gọi là cách Tọa Quý Hướng Quý tốt đẹp, vì vậy có cả bộ Khôi Việt tốt hơn một sao Thiên Khôi hoặc Thiên Việt. Thiên Việt thuộc tính âm hỏa, chủ manh nha, phát động, hợp với bộ Đồng Lương, Âm Dương thành cách phát may " Lương Việt" và " Đồng Việt ", bộ Âm Dương thành bộ " Nhật Nguyệt phản bối hà vọng thanh quang, tố hỉ ngoại triều Khôi Việt". Thiên Khôi thuộc tính dương hỏa, chủ bộc phát lớn, lên đến cực điểm. 



Bộ Khôi Việt có tính Hỏa nên nếu gặp sát tinh sự việc bộc phát xấu diễn ra nhanh chóng,  đặc biệt khi gặp thêm Linh Tinh hoặc Hỏa Tinh thành cách Khôi Hỏa liên quan đến tang tóc và Việt Linh Hình gặp sấm sét búa đao. Khi đó Khôi Việt tuy mặt công việc vẫn tốt đẹp nhưng tai họa sẽ xảy ra mỗi khi lưu sát tinh hội về. Bộ Khôi Việt trong tử vi chính là bộ Âm Quý Nhân và Dương Quý Nhân trong bộ Kinh Dịch, chỉ khác là Thiên Khôi không phải là Dương Quý Nhân mà là Âm Quý Nhân và ngược lại Thiên Việt chính là Dương Quý Nhân. Khôi Việt là bộ sao nên có ở mệnh nếu là mệnh tốt, chủ không phải người tầm thường, nếu gia sát tinh Linh Hỏa Kỵ Hình thì không nên xuất hiện tại mệnh địa vị tuy cao nhưng khi sụp đổ cũng rất nhanh.


Như đã nói ở trên, Thiên Khôi chính là Âm Quý Nhân và Thiên Việt chính là Dương Quý Nhân nên bộ Khôi Việt an theo.Giáp, Mậu Canh : Ngưu Dương .Ất Kỷ Thử Hầu vương Bính, Đinh Trư Kê vị Nhâm, Quý Thố Xà tàng Lục Tân phùng Mã Hổ.


Dịch ra là :  An Thiên Khôi cho các tuổi ở các vị trí như trên :

Giáp an Thiên Khôi tại cung Sửu, Thiên Việt tại cung Mùi.

MậuCanh an Thiên Khôi tại cung Mùi, Thiên Việt tại cung Sửu.

Ất an Thiên Khôi tại cung Tý, Thiên Việt tại cung Thân.

Kỷ an Thiên Khôi tại cung Thân, Thiên Việt tại cung Tý.

Bính an Thiên Khôi tại cung Hợi, Thiên Việt tại cung Dậu.

Đinh an Thiên Khôi tại cung Dậu, Thiên Việt tại cung Hợi.

Nhâm an Thiên Khôi tại cung Tị, Thiên Việt tại cung Mão.

Qúy an Thiên Khôi tại cung Mão, Thiên Việt tại cung Tị.

Canh an Thiên Khôi tại Mùi, Thiên Việt tại Sửu.

Tân an Thiên Khôi tại cung Ngọ, Thiên Việt tại cung Dần.


Hoặc trong Thông Thư đều giải thích nguyên lý hình thành Khôi Việt nhưng nhầm vị trí của hai sao này với nhau, Thiên Khôi thành Thiên Việt và Thiên Việt thành Thiên Khôi. Qua quá trình khán hạn thì nghiệm lí đúng là có sự nhầm lẫn giữa hai sao này và phải an chúng ngược lại. Trong Thông Thư có viết : Quách Cảnh Thuần lấy mười Can thì Quý Nhân là đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù; cho đến là Khôn, hoàng trung cũng thông lý. Chính là cái đức của Quý Nhân. Ấy là Dương Quý Nhân xuất ra ở Khôn Tiên Thiên mà đi thuận, Âm Quý Nhân xuất ra ở Khôn Hậu Thiên mà đi nghịch Đức của Thiên Can, Mùi đủ là Quý, mà hợp khí của Can đức chính là Quý vậy. Khảo Nguyên nói rằng: "Họ Tào với Thông Thư hai thuyết đều có nghĩa. Nhưng họ Tào thời lấy Dương là Âm, lấy Âm là Dương. Thế nên Dương thuận Âm nghịch, Dương trước Âm sau, đó là lý tự nhiên vậy nên lấy khởi từ Mùi mà đi thuận là Dương; khởi từ Sửu mà đi nghịch là Âm, mới nói là an Quý Nhân. Can Đức là hợp Phương với Thân, tại sao không dùng Can Đức mà còn dùng Can nào cho hợp? Đức là Thể, hợp thời dùng nó, hợp Can của Đức, chỗ đó dùng tất đại cát. Vì thế lấy tên là Quý Nhân. Vì vậy bộ Khôi Việt rất thích hợp đóng tại mệnh và tam hợp không bị sát tinh xâm hại, nếu bị nhẹ hoặc nặng thì dễ gặp họa tai vì Khôi Việt chủ bộc phát nhưng đa phần vẫn được hưởng phúc, lợi lộc.



Bộ Khôi Việt an theo Thiên Can, lực cát hóa rất lớn không kém vòng Lộc Tồn, vì Khôi Việt an theo can tọa ở nơi quý nhân, tức sinh hóa hữu tình, sinh ở đất khắc mà hợp hóa như Ất Mộc khắc Kim nhưng gặp Canh hợp hóa Kim giải thế khắc hại, nên gọi là Quý Nhân, xếp hàng đầu trong lục cát tinh, không tọa ở nơi La Võng. "Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dĩ thành công". Mệnh Khoa Quyền rất tốt nhưng cần gặp thêm Khôi Việt để thành công lớn vì Khôi chủ lớn, Khôi Việt còn chứng minh mệnh tạo hơn người, Thiên Khôi rất ưa gặp Hóa Khoa thành cách Khôi Khoa chủ đứng đầu kim bảng. "Tọa quý hướng quý chẳng phùng không xứ, gặp khoa thời nhất cử thành danh". Đặc biết nếu gặp Đào Hồng Hỉ thành cách Khôi Đào thích hợp theo ngành người mẫu, thường có ngoại hình hoặc khuôn mặt đẹp. Bộ Khôi Việt luôn cần thiết cho một hạn nổi danh.



0 nhận xét